Chuông chùa Rối được một số người dân phát hiện năm 1989 trên khu đất trước đây ngôi chùa Rối đã thành phế tích tại xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Sau được phát hiện chuông đã được chuyển qua các cơ quan khác nhau để cất giữ. Hiện nay, chuông được đưa về bàn giao cho Bảo tàng Hà Tĩnh bảo quản và phát huy giá trị. Có tên là chuông chùa Rối vì được phát hiện ở chùa Rối chứ trên chuông không có dòng Hán tự đại tự nào ghi tên chuông chùa như những những quả chuông có niên đại muộn về sau này.
Chuông bao gồm quai và thân. Quai được tạo thành theo hình dáng một con rồng trong tư thế khom lưng, bốn chân bậm bạp, mỗi chân 4 móng kiểu móng đại bàng quắp lấy đỉnh chuông. Rồng ở đây được tạo tác khá công phu, toàn thân tạo vảy, giữa mỗi vảy có chấm tròn, bố trí xen kẻ nhau theo kiểu vảy cá chép, lưng rồng có bờm thấp cao khác nhau trông khá sinh động. Đuôi rồng cụt, đầu rồng nhỏ so với thân, có những bờm ti ti. Đường nét thân rồng khum thành một vòng cung đều đặn chắc khỏe có thể treo trên giá chịu được trọng lượng hàng trăm ki lô gam của quả chuông.
Thân chuông hình khối trụ tròn liền khối bằng đồng, miệng to và nhỏ khum thon dần về phía đỉnh. Thân chuông được trang trí, chia thành hai phần được giới hạn bởi năm đường gờ nổi, đường gỡ nổi chính giữa to, cao hơn cả. Phần trên cao 57cm chia thành bốn hình thang cân, đứng, bằng nhau. Những ô hình thang cân, cạnh dưới to, cạnh trên nhỏ, hai cạnh bên bằng nhau. Phần dưới cao 35cm, chia thành bốn ô hình chữ nhật nằm bằng nhau. Hình chữ nhật nằm được giới hạn thông qua năm đường gân nhỏ chạy dọc từ trên xuống dưới và chạy ngang bao quanh chuông. Trên đỉnh là ba đường gân chạy bao quanh với khoảng cách đều nhau tạo thành những đường tròn đồng tâm. Chuông có sáu nhúm thỉnh chuông, hình dáng giống nhau, kích thước bằng nhau: 10cm, hình tròn hoa sen với 13 cánh sen lớn, lật úp, đều nhau, 13 cánh sen nhỏ cũng lật úp đều nhau, cánh to, cánh nhỏ bố trí xen kẽ nhau. Trong số các núm đó, có 2 núm được bố ở vị trí gần dưới miệng chuông, trên các đường gờ nổi, nằm đối xứng nhau qua tâm chuông, chia đường tròn phía dưới chuông thành hai cung tròn bằng nhau. Ở đường tròn gờ nổi ở giữa chuông, bố trí bốn núm chuông ở khoảng cách đều nhau với hai cặp đối xứng nhau qua tâm chuông. Ở phần miệng chuông được trang trí cầu kỳ với 86 cánh hoa sen lập úp, viền cánh sen có hai đường gờ nổi, trong số đó có 43 cánh to, 43 cánh nhỏ nằm xen kẻ nhau bao quanh vành miệng chuông. Kích thước chuông cao 115cm (tính từ miệng chuông đến quai chuông), đường kính miệng 65cm, tỷ lệ giữa chiều cao và đường kính miệng 1,738.
Chuông chùa Rối
Trên chuông chùa Rối có khắc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán của Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh. 33 chữ Hán được khắc phần lớn thể hành thư, một số chữ ở thể thảo thư như chữ 海 (Hải) ở dòng đầu, chữ 安 (An) ở dòng cuối. Một số chữ thiếu nét như chữ 南(Nam), chữ 里(Lý). Một số chữ bị mờ khó đọc như chữ 端 (Đoan) ở dòng đầu, chữ 艱 (Gian) ở dòng hai, chữ 路 (Lộ) ở dòng ba.
Nguyên văn chữ Hán
南 望 橫 山 大 海 端
鯨 涛 洶 湧 白 澐 艱
迢 迢 萬 里 南 征 路
車 駕 荒 洲 布 政 安
硤 石 范 師 孟
Phiên âm
Nam vọng Hoành Sơn đại hải đoan,
Kình đào húng dũng bạch vân gian,
Thiều thiều vạn lý nam chinh lộ,
Xa giá hoang châu Bố Chánh an.
Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh.
Dịch nghĩa
Nhìn theo núi Hoành Sơn, phía Nam là một vùng biển lớn,
Sóng kình dữ dội tung bọt trắng,
Trùng trùng vạn dặm đường Nam chinh,
Xa giá đến châu Bố Chánh giúp chính sự được yên”.
(Phạm Sư Mạnh, hiệu Hiệp Thạch)
Phạm Sư Mạnh là một nhà thơ thời nhà Trần theo xa giá nhà vua thân chinh đi chinh phạt Chiêm Thành đến đất Hoan Châu Bố Chánh. Trước cảnh tượng hùng vĩ, bao la mà hoang vắng của non nước, đất trời của dãy Hoành Sơn, giáp với biển Đông, vùng biên viễn của quốc gia Đại Việt, tức cảnh nhà thờ đã sáng tác ra bài thơ này.
Chuông chùa Rối mang những đặc trưng của chuông thời Trần. Hiện nay chuông thời Trần rất hiếm và chỉ có hai hiện vật trở đã trở thành Bảo vật quốc gia là chuông chùa Vân Bản phát hiện ở Đồ Sơn – Hải Phòng do Bảo tàng Lịch sử Quốc gia bảo quản và chuông chùa Bình Lâm hiện được chùa Bình Lâm, xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang bảo quản. So sánh chuông chùa Rối với hai quả chuông thời Trần ở phía Bắc trên, có thể thấy một số điểm giống nhau và khác nhau nhất định.
Điểm giống: Thân trang trí gờ nổi chia thành 8 ô: 4 ô hình thang, 4 ô hình chữ nhật. Ba quả chuông đều không có đại tự chữ Hán ghi tên chuông trên mặt chuông. Các bài minh văn đều viết theo lối khắc chữ chứ không phải đúc chữ. Bài minh văn đều được khắc phần phía trên của thân chuông, trong ô hình thang cân. Một số chữ trên chuông viết thiếu nét như để kỵ húy thời Trần có ở chuông chùa Rối và chuông chùa Vân Bản. Trang trí quai chuông đều rồng khum, toàn thân vẩy cá chép. Núm thỉnh chuông đều hình tròn, đều có số lượng 6 núm, bố trí tương tự nhau, viền miệng chuông trang trí hoa sen úp, cánh to và nhỏ xen kẻ nhau.
Điểm khác: Kích thước chuông chùa Rối, cao 115cm, đường kính miệng 65cm, tỷ lệ giữa chiều cao và đường kính miệng là 1,77 cao hơn chuông chùa Bình Lâm (1,58) và chuông chùa Vân Bản (1,56). Quai chuông chùa Rối hình một con rồng khum lưng với 4 chân. Còn các quả chuông kia là hai con rồng, mỗi con hai chân, đấu đuôi vào nhau tạo búp sen làm thành quai. Đầu rồng chuông chùa Rối nhỏ, có đuôi cụt, mặt miệng không rõ so với các chuông khác. Bài minh văn chuông chùa Rối cũng có nội dung khác. Số lượng chữ bài minh văn cũng ít nhất (33 chữ). Phong cách cách khắc chữ hành thư giống với chuông chùa Vân Bản, nhưng khác với chân thư chuông chùa Bình Lâm. Một số chữ Hán trên chuông chùa Rối còn ở dạng thảo thư.
So sánh các chuông thời Trần hiện có cho ta thấy những điểm tương đồng và khác biệt để từ đó giúp chúng ta nhận thức được giá trị lịch sử, văn hóa chung của chuông thời Trần đồng thời giúp chúng ta nhận biết được những đặc điểm độc đáo riêng có của mỗi quả chuông phản ánh sự tương đồng và đa dạng trong văn hóa vùng miền của Việt Nam của quả chuông thời Trần.
Từ những đặc điểm trên có thể thấy chuông chùa Rối phản ảnh nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa của Hà Tĩnh, Việt Nam và người Á Đông.
Về phật giáo: Thời Trần, Phật giáo cực thịnh, phát triển đến đỉnh cao và trở thành quốc giáo. Các vua Trần theo đạo phật. Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) còn sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và đi tu. Kéo theo đó là chùa, tháp được xây dựng ở nhiều nơi. Và chùa thì thường có chuông chùa. Những quả chuông thời Trần còn sót lại hiện nay rất có giá trị và phần lớn đã trở thành quốc bảo nhờ những giá trị to lớn của chúng. Nếu chuông chùa Bình Lâm ở xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang thể hiện phật giáo, văn hóa phật giáo đã có mặt ở địa đầu phía bắc Đại Việt, góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước nơi miền biên viên thời Trần thì chuông chùa Rối hiện diện ở xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã thể hiện Phật giáo đã được truyền bá đến vùng phên dậu phía Nam của quốc gia Đại Việt cũng thời kỳ này, có lẽ nó đã theo đoàn quân của vua Trần Duệ Tông đi chinh phạt Chiêm Thành. Văn hóa phật giáo tới đây cũng thể hiện chủ quyền của quốc gia Đại Việt về phía nam. Khi so sánh, nó cũng những khác biệt nhất định thể hiện qua quả chuông chùa Rối.
Về lịch sử, chuông chùa Rối là bảo vật quan trọng gắn liền với vị vua Trần Duệ Tông, Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh và các tướng lĩnh. Qua các tư liệu lịch sử khác cũng như nội dung bài minh văn trên chuông chùa Rối cho thấy sự kiện vua Trần Duệ Tông tháng 12 năm 1376 đã đích thân cầm quân chinh phạt Chiêm Thành. Xa giá nhà vua đã đến vùng phía nam Hà Tĩnh, vận chuyển lương thảo đến cửa biển Di Luân (Quảng Bình), rồi dừng quân một tháng để rèn luyện binh sĩ. Trong đợt thân chinh lần này đã bị mắc mưu mai phục của vua Chế Bồng Nga nên ông và các tướng sĩ đã bị giết ở trận tiền.
Trần Duệ Tông (1337-1377) là vị vua thứ 9 của triều đại nhà Trần. Ông có hai người vợ gắn liền với vùng đất Hà Tĩnh đó là Trần Thị Ngọc Hào và Nguyễn Thị Bích Châu.
Trần Thị Ngọc Hào là con của ông Trần Công Thiệu, quê làng Tri Bản, xã Thổ Hoàng (nay là xã Hòa Hải, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Một dịp đi tuần thú phương Nam (1), vua Trần Duệ Tông gặp bà vì thấy bà là người phụ nữ đẹp và sắc sảo. Vua đã lấy bà làm vợ, phong cho làm Hoàng hậu Bạch Ngọc, mà người dân thường gọi bà là Hoàng hậu Bạch Ngọc. Sau nhà Trần sụp đổ, bà cùng với đoàn tùy tùng hơn 572 người bỏ trốn khỏi kinh đô Thăng Long, hóa trang tìm về bản quán, mai danh ẩn tích, khai khoang lập ấp cả một vùng thượng Đức Thọ, Can Lộc, Hương Khê ngày nay. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bà công lớn cung cấp hậu cần kháng Minh. Và bà cũng là nhạc mẫu của người Anh hùng Lê Lợi khi con gái bà là Huy Chân công chúa trở thành cung phi của người sáng lập ra nhà Hậu Lê (2). Hiện tại bà được thờ tại chùa Am (xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) và ở một số di tích khác.
Nguyễn Thị Bích Châu, quê xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, có cha làm quan đại thần triều Trần. Bà tư chất thông minh, được tuyển cung phi của vua Trần Duệ Tông và được phong “Tả cung quý phi”. Khi nhà vua thân chinh đánh Chiêm Thành, bà can ngăn, nhưng vua không nghe. Nên bà xin đi theo hộ giá và qua đời khi dâng mình làm vật hiến tế cho thần biển để biển được yên giúp chiến thuyền vận hành suôn sẻ. Vùng biển đó là cửa bể Kỳ Hoa (nay thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh). Bà có “Kê Minh thập sách” dâng vua về kế sách trị nước an dân. Hiện di tích lớn nhất thờ bà ở Hà Tĩnh có đền thờ Chế Thắng phu nhân ở xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, nằm bên tả cửa Khẩu.
Các bảo vật chuông chùa Rối cùng với Môn Hạ sản ấn và các di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến vua Trần Duệ Tông ở Hà Tĩnh là nguồn tư liệu quý giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử Hà Tĩnh, lịch sử Việt Nam triều Trần.
Chú thích:
(1) Hiện chưa có cứ liệu lịch sử nào chắc chắn để khẳng định nhưng qua nghiên cứu, kết nối các bảo vật và các di tích trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh liên quan đến vua Trần Duệ Tông thì đợt tuần thú phương Nam của Trần Duệ Tông chắc có lẽ là lần Nam chinh của nhà vua khi đến đất Hương Khê qua làng Tri Bản (nay là xã Hòa Hải, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh thì gặp Trần Thị Ngọc Hào và lấy bà làm vợ (?). Năm 1962 tại xã Hương Giang gần xã Hòa Hải, quê hương của bà Trần Thị Ngọc Hào, huyện Hương Khê đã phát hiện được chiếc ấn của sảnh Môn Hạ thời Trần niên đại tạo tác vào năm Long Khánh thứ 5 (1376), triều vua Trần Duệ Tông. Hiện nhà thờ họ Trần của bà ở đây cũng được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Năm 1989, phát hiện chuông chùa Rối cũng liên quan đến sự kiện vua Trần Duệ Tông Nam chinh vào năm 1377 cũng đã đi qua Hà Tĩnh để đánh Chiêm Thành. Khi đến cửa Khẩu – Kỳ Anh thì người vợ Nguyễn Thị Bích Châu của nhà vua tự nguyện hiến thân cho thần biển giúp đoàn thuyền vượt sóng vào nam thuận lợi.
(2) Theo Lý lịch di tích Lịch sử và Kiến trúc Nghệ thuật chùa Am, xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ ở Bảo tàng Hà Tĩnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Duy Báu (Chủ biên – 2000), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Hồng Dần (1991), Hồ sơ di tích Lịch sử và Kiến trúc Nghệ thuật chùa Am, xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh tại Bảo tàng Hà Tĩnh. Trần Hồng Dần (1995), Hồ sơ di tích Lịch sử - Danh thắng đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu, xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh tại Bảo tàng Hà Tĩnh. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên – 2017), Chùa cổ Hà Tĩnh, Nxb Đại học Vinh. Những phát hiện mới về khảo cổ học 1995 và 1996 (in 1996 -1997). Thông báo Hán Nôm 1998 (in 1999).
Theo Trần Phi Công (Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh)